lephuc01
05-05-2017, 02:30 PM
chuyên sản xuất nhôm thanh U,V, nhôm hộp,vuông, gia công theo mẫu yêu cầu, sơn tĩnh điện...[/b]
0937655551 phúc
0983994326 linh
Doanh nghiệp QTH mình chuyên sản xuất các loại thanh nhôm định hình cao cấp công nghệ nhật bản. Qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này, công ty mình không ngừng phát triển về mọi mặt để ra đời những sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất.Với hơn trên dưới 200 mẫu mã sản phẩm khác nhau theo từng nghành nghề đáp ứng hầu hết nhu cầu của khách hàng trong mọi lĩnh vực như : xây dựng, trang trí ngoại thất và những sản phẩm phục vụ công nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu quý khách hàng doanh nghiệp còn nhận gia công nhôm theo khuân mẫu, gia công sơn tĩnh điện...Quý khách có thể tham khảo thêm từ trang wed thông tin
nhôm hộp vuông, chữ nhật (http://www.nhomqth.com/)
http://www.nhomqth.com/upload/product/wp20150102004-4144.jpg
http://www.nhomqth.com/upload/product/img2442-2760.JPGhttp://www.nhomqth.com/upload/product/dsc0330800x533-7733.JPG
53439
DNTN TM Nhôm - Sắt Đại Phúc Linh
email: lephuc.business@gmail.com
TEL: 0937655551 Mr PHÚC - 0983994326 Mrs LINH
Nhà máy: ấp 5 x.vĩnh lộc b - h.bình chánh
VĂN PHÒNG : THIÊN PHƯỚC P9 TÂN BÌNH, TP.HCM
================================================== ================================================== ====
Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và sống tử bằng 13. Nguyên tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ quát thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ quát nhất trong vỏ quả đất. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của địa cầu. Kim khí nhôm hiếm phản ứng hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt hạn chế trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng vật khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .
Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim khí có tỷ trọng thấp và có khả năng chống ăn mòn cảnh tượng bị động. Các thành phần nông dân kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành Công lao phưởng chức vũ trụ và rất quan yếu trong các chuye khác của giao thông chuyên chở và nguyên liệu kiến trúc. Các hợp chất bổ ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.
mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ quát của nó , nhôm được thu nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]
Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp .
trang mục [ ẩn ]
1 thuộc tính
2 Lịch sử
3 ứng dụng
4 Sự phổ thông , điều chế
5 Đồng vị
5.1 Cụm
6 báo trước
7 Hóa học
7.1 thể trạng ôxi hóa 1
7.2 thể trạng ôxi hóa 2
7.3 thể trạng ôxi hóa 3
8 có tác động đến một điều gì đó lên thực vật
9 ghi chú
10 biên soạn
11 kết liên ngoài
tính chất [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim loại mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và vững bền do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài không khí ở hoàn cảnh bình thường .
Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong khi hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một cấu trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]
Nhôm đặc tính với nước tạo ra hydro và năng lượng:
2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2
tính chất này có khả năng dùng để làm ra hydro , tuy nhiên biến hóa này nhanh chóng dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]
Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị gây thiệt hại nhiều theo phản ứng
Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O
tiếp Al lại hiệu quả với nước như phản ứng trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.
Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dầu chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị nếu như người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất sét. Vì thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim khí của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .
danh tiếng của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần đầu tiên trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời gian khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để làm ra nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và thể hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng vật trở nên không đắt tiền và ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Nước Đức trở nên nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng làm ra đủ nhôm để có khả năng làm ra 60.000 máy bay tiêm kích trong bốn năm. [12] .
áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học tăng lên đáng kể.
Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần quan trọng trong các phi cơ và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm trông coi , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , cơ hồ tuốt các loại gương hiện đại được làm ra sử dụng lớp phản xạ bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các như: âm ba bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào đặc tính hấp thụ bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để tang tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ô tô , phi cơ , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
xử lý nước thuốc
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD .
Nhôm dạng bột bình thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.
phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có xác xuất giao thoa .
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .
biến hóa nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )
Sự phổ quát , pha chế [ sửa sửa mã nguồn ]
Quặng Bauxite chứa nhôm. Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]
mặc dầu nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong công nghiệp và được sản xuất với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì toàn bộ nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim loại , nó rẻ hơn dồi dào so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một chuye mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho Thấu suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm chú ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hổ lốn của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị hao hụt do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được trông coi bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn cốt tử là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sang sửa tất do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Thời hạn tiêu hao năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò bây giờ làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những chuye mà nguồn cung cấp điện rất nhiều với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu mặt trăng và các thiên thạch . Các thành phần của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống quả đất , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để chính xác tuổi trên trái đất của các tinh thạch này. Các Học hỏi về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ thông trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đái đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]
Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tạp chí Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là mở ra khả năng của các biến hóa mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]
cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi rửa ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có mật hiệu của bị trúng độc nếu nó được hấp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất ra đời sự bị trúng độc nhôm. Địa ngục ta ý rằng nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm gặp mặt với một số chất hóa học nào đó có thể bào mòn nó rất nhanh. Ví dụ , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân gặp mặt với bề mặt của miếng nhôm có thể phá hủy lớp ôxít nhôm gác canh bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thủy ngân không được phép trong nhiều sân bay và hãng quáng dã , vì nhôm là thành phần nông dân cấu trúc căn bản của các máy bay.
Hóa học [ sửa sửa mã nguồn ] thể trạng ôxi hóa 1 [ sửa sửa mã nguồn ] AlH được phối chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
Al 2 O được phối chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
Al 2 S được pha chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban đầu. Selenua được pha chế na ná.
AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
trạng thái ôxi hóa 2 [ sửa sửa mã nguồn ] Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
trạng thái ôxi hóa 3 [ sửa sửa mã nguồn ] quy tắc tam suất Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chả hạn như cacbonat , không thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chả hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , gây nên các hiđrat với ít nhất sáu phân tử nước kết tinh .
Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có xác xuất làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dả. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được điều chế bằng đặc tính của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới không đơn giản , và phản ứng với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
Phốtphua nhôm , AlP , được làm ra na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có khả năng điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có xoàn , nitrua bo và cacborunđum . Nó Hầu như không hòa tan trong nước.
Hiđrôxít nhôm có thể được phối chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có khả năng tạo ra các muối aluminat với kim loại kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có thể phối chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
Florua nhôm , AlF 3 , có xác xuất phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.
Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều vận dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có kiến trúc tương tự.
0937655551 phúc
0983994326 linh
Doanh nghiệp QTH mình chuyên sản xuất các loại thanh nhôm định hình cao cấp công nghệ nhật bản. Qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này, công ty mình không ngừng phát triển về mọi mặt để ra đời những sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất.Với hơn trên dưới 200 mẫu mã sản phẩm khác nhau theo từng nghành nghề đáp ứng hầu hết nhu cầu của khách hàng trong mọi lĩnh vực như : xây dựng, trang trí ngoại thất và những sản phẩm phục vụ công nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu quý khách hàng doanh nghiệp còn nhận gia công nhôm theo khuân mẫu, gia công sơn tĩnh điện...Quý khách có thể tham khảo thêm từ trang wed thông tin
nhôm hộp vuông, chữ nhật (http://www.nhomqth.com/)
http://www.nhomqth.com/upload/product/wp20150102004-4144.jpg
http://www.nhomqth.com/upload/product/img2442-2760.JPGhttp://www.nhomqth.com/upload/product/dsc0330800x533-7733.JPG
53439
DNTN TM Nhôm - Sắt Đại Phúc Linh
email: lephuc.business@gmail.com
TEL: 0937655551 Mr PHÚC - 0983994326 Mrs LINH
Nhà máy: ấp 5 x.vĩnh lộc b - h.bình chánh
VĂN PHÒNG : THIÊN PHƯỚC P9 TÂN BÌNH, TP.HCM
================================================== ================================================== ====
Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và sống tử bằng 13. Nguyên tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ quát thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ quát nhất trong vỏ quả đất. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của địa cầu. Kim khí nhôm hiếm phản ứng hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt hạn chế trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy vậy , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng vật khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .
Nhôm có điểm đáng chú ý của một kim khí có tỷ trọng thấp và có khả năng chống ăn mòn cảnh tượng bị động. Các thành phần nông dân kiến trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành Công lao phưởng chức vũ trụ và rất quan yếu trong các chuye khác của giao thông chuyên chở và nguyên liệu kiến trúc. Các hợp chất bổ ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.
mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ quát của nó , nhôm được thu nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]
Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp .
trang mục [ ẩn ]
1 thuộc tính
2 Lịch sử
3 ứng dụng
4 Sự phổ thông , điều chế
5 Đồng vị
5.1 Cụm
6 báo trước
7 Hóa học
7.1 thể trạng ôxi hóa 1
7.2 thể trạng ôxi hóa 2
7.3 thể trạng ôxi hóa 3
8 có tác động đến một điều gì đó lên thực vật
9 ghi chú
10 biên soạn
11 kết liên ngoài
tính chất [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim loại mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa tạo thành rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và vững bền do lớp ôxít canh gác. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài không khí ở hoàn cảnh bình thường .
Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong khi hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một cấu trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]
Nhôm đặc tính với nước tạo ra hydro và năng lượng:
2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2
tính chất này có khả năng dùng để làm ra hydro , tuy nhiên biến hóa này nhanh chóng dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]
Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị gây thiệt hại nhiều theo phản ứng
Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O
tiếp Al lại hiệu quả với nước như phản ứng trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.
Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu hàng đầu tới nhôm ( mặc dầu chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):
Có một ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Địa ngục thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã làm ra kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam đoan với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách làm ra kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan tâm tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị nếu như người dân bắt đầu sản xuất kim loại màu sáng này từ đất sét. Vì thế , thay vì cảm ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]
Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và phèn chua vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của Phèn trắng là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim khí của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .
danh tiếng của Friedrich Wöhler nói chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim khí này đã được làm ra lần đầu tiên trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .
Nhôm được chọn làm chóp cho đài kỷ niệm Washington vào thời gian khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]
Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để làm ra nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và thể hiện nó trong cuốn sách năm 1859 với hai cải tiến trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng vật trở nên không đắt tiền và ngày nay nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Nước Đức trở nên nhà làm ra nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể được tràn đầy hy vọng cạnh tranh: khả năng làm ra đủ nhôm để có khả năng làm ra 60.000 máy bay tiêm kích trong bốn năm. [12] .
áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất thảy các kim khí khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan yếu trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các tính chất cơ học tăng lên đáng kể.
Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần quan trọng trong các phi cơ và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.
Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao trùm cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao phủ này gây nên một lớp mỏng của ôxít nhôm trông coi , nó không bị hỏng hóc như các lớp bạc bao trùm vẫn hay bị. Trên thực tiễn , cơ hồ tuốt các loại gương hiện đại được làm ra sử dụng lớp phản xạ bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các như: âm ba bên trong mặc dù điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.
Các loại vỏ phủ nhôm đôi khi được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào đặc tính hấp thụ bức xạ điện từ của mặt trời tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.
Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để tang tạo các chi tiết của phương tiện chuyên chở ( ô tô , phi cơ , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )
Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )
xử lý nước thuốc
Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )
Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu ăn , v.v )
Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]
chế tác máy móc.
mặc dầu tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .
Nhôm siêu tinh khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và làm ra đĩa CD .
Nhôm dạng bột bình thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , cốt tử là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.
Nhôm dương cực hóa là yên ổn hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.
phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính đương đại được làm ra từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.
Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong thiên nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có xác xuất giao thoa .
Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm nguyên liệu rắn cho hoả tiễn , nhiệt nhôm và các thành phần của pháo hoa .
biến hóa nhiệt nhôm dùng để phối chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )
Sự phổ quát , pha chế [ sửa sửa mã nguồn ]
Quặng Bauxite chứa nhôm. Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]
mặc dầu nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng tự do và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm xơ cua cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim khí tự do tương đối mới trong công nghiệp và được sản xuất với số lượng công nghiệp chỉ khoảng trên 100 năm.
Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì toàn bộ nhôm của quả đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim khí khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ bền vững , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.
Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở thành một trong những thành phần nông dân quan yếu của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim loại , nó rẻ hơn dồi dào so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dù cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một chuye mới. Tuy nhiên , nó là khu vực hoạt động trầm lắng cho Thấu suốt những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm chú ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ôtô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.
Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , nếu với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Vì thế , nó được tách ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim khí. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn hợp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit nguyên thủy được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau thời gian ấy được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hổ lốn của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ son vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh luyện theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .
Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .
Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:
Al 3+ + 3e - → Al
Ở đây các ion nhôm bị biến đổi ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim loại sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.
Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:
2O 2- → O 2 + 4e -
Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế thường xuyên , do nó bị hao hụt do phản ứng:
O 2 + C → CO 2
trái lại với anốt , các catốt Hầu như không bị tiêu hao trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được trông coi bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn cốt tử là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải sang sửa tất do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.
Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult mất mát nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác luôn luôn có khuyết điểm về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Thời hạn tiêu hao năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được làm ra. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện nghề nghiệp điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò bây giờ làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.
Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có khuynh hướng được đặt ở những chuye mà nguồn cung cấp điện rất nhiều với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .
Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).
Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị ổn định ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong tự nhiên là 100%. Al-26 được sản xuất từ agon trong khí quyển do va chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có ứng dụng thực tiễn trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời gian cháy và sự xói mòn trong thang độ thời gian 105 đến 106 năm ( về sai số ).
Al-26 nguồn gốc vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu mặt trăng và các thiên thạch . Các thành phần của tinh thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , sinh ra các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống quả đất , tấm chắn khí quyển đã trông coi cho các phần tử này không sinh ra thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có xác xuất sử dụng để chính xác tuổi trên trái đất của các tinh thạch này. Các Học hỏi về thiên thạch cho thấy Al-26 là tương đối phổ thông trong thời kì hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có xác xuất là năng lượng được phóng thích bởi sự phân rã Al-26 liên đái đến sự nấu chảy lại và sự sai biệt của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]
Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tạp chí Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim khí kiềm thổ . Các nhà Học hỏi còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là mở ra khả năng của các biến hóa mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]
cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do tiếp kiến với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn ọe hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống đi rửa ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim loại nặng , nhưng có mật hiệu của bị trúng độc nếu nó được hấp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ Bếp bằng nhôm ( phổ biến do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng bị trúng độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng lan tràn thặng dư các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn duy nhất ra đời sự bị trúng độc nhôm. Địa ngục ta ý rằng nhôm liên đái đến bệnh Alzheimer , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.
Cần cẩn trọng để không cho nhôm gặp mặt với một số chất hóa học nào đó có thể bào mòn nó rất nhanh. Ví dụ , chỉ một lượng nhỏ thủy ngân gặp mặt với bề mặt của miếng nhôm có thể phá hủy lớp ôxít nhôm gác canh bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có kiến trúc nặng nề có xác xuất bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt biểu thủy ngân không được phép trong nhiều sân bay và hãng quáng dã , vì nhôm là thành phần nông dân cấu trúc căn bản của các máy bay.
Hóa học [ sửa sửa mã nguồn ] thể trạng ôxi hóa 1 [ sửa sửa mã nguồn ] AlH được phối chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .
Al 2 O được phối chế bằng cách nung nóng ôxít thường nhật , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .
Al 2 S được pha chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó mau chóng bị chuyển thành các chất ban đầu. Selenua được pha chế na ná.
AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.
trạng thái ôxi hóa 2 [ sửa sửa mã nguồn ] Subôxít nhôm , AlO có khả năng được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .
trạng thái ôxi hóa 3 [ sửa sửa mã nguồn ] quy tắc tam suất Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chả hạn như cacbonat , không thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chả hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , gây nên các hiđrat với ít nhất sáu phân tử nước kết tinh .
Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có xác xuất làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dả. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có khả năng được điều chế bằng đặc tính của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.
Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới không đơn giản , và phản ứng với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.
Nitrua nhôm , AlN , có thể được sản xuất từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .
Phốtphua nhôm , AlP , được làm ra na ná , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).
Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong thiên nhiên như là corunđum , và có khả năng điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có xoàn , nitrua bo và cacborunđum . Nó Hầu như không hòa tan trong nước.
Hiđrôxít nhôm có thể được phối chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có khả năng tạo ra các muối aluminat với kim loại kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.
Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có thể phối chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.
Florua nhôm , AlF 3 , có xác xuất phối chế bằng cách cho hai nguyên tố hiệu quả với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có kiến trúc cầu nối.
Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , ví dụ trimêtyl nhôm .
Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có khả năng tích điện dương đã được biết , trong đó có giá trị nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều vận dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có kiến trúc tương tự.